Oleg Blokhin: Tiền xếp sau tình yêu và đam mê

Vượt qua cả Franz Beckenbauer, Johan Cruyff, Gerd Müller để giành Quả bóng vàng dù không chơi cho CLB khổng lồ nào ở châu Âu, người ta có thể hiểu tài năng cũng như tình yêu Oleg Blokhin dành cho Dynamo Kiev lớn đến mức nào…

Năm 1972, đội tuyển Liên Xô (cũ) giành Huy chương Đồng tại kỳ Olympic ở Munich (Đức). Đó là một sự ngạc nhiên lớn, bởi trong đội hình của họ không có bất kỳ một tên tuổi lớn nào ngoài ngôi sao 20 tuổi có tên Oleg Blokhin.

Blokhin chính thức ghi danh vào làng bóng đá chuyên nghiệp năm 17 tuổi, trong màu áo Dymano Kiev năm 1969. Ông lọt vào tầm ngắm của nhiều đội bóng lớn nhưng gần như cả sự nghiệp của ông dành cho đội bóng Thủ đô (2 mùa cuối lần lượt khoác áo Vorwarts Steyr và Aris Limassol).

Và tất nhiên, những gì tinh túy nhất của ông đều dành cho Kiev trong 19 năm tuyệt vời cùng 19 danh hiệu. Ông là tài năng lớn nhất mà bóng đá Liên Xô trước đây sản sinh ra sau thời của Lev Yashin

Blokhin được đánh giá cao nhờ sức tấn công dữ dội của ông. Người ta ví ông là sát thủ ở cả trong và ngoài vòng cấm. Ông thường thực hiện những cú sút xa uy lực, khuất phục mọi đối thủ để găm thẳng vào lưới.

Không đại diện cho hình mẫu cầu thủ có kỹ thuật điêu luyện, Blokhin bù đắp bằng những bàn thắng quan trọng. Không những vậy, ông có tầm nhìn tốt để số những đường chuyền thành bàn cho đồng đội lên tới hơn 100. Một kiểu tiền đạo gần như hoàn hảo.

Ngay trong giai đoạn đầu sự nghiệp, Blokhin đã trở thành một trong những tên tuổi nổi tiếng và nhận được không ít lời đề nghị về bản hợp đồng có giá trị, qua đó giúp cho sự nghiệp của ông được thúc đẩy và nâng tầm. Nhưng như đã nói, ông dành tình yêu cho Dynamo Kiev.

Trong những năm tháng chơi bóng cho Kiev, ông trở thành chân sút xuất sắc nhất của CLB với 266 bàn thắng. Giúp đội nhà 8 lần đăng quang giải VĐQG Ukraina, năm đỉnh cao nhất trong sự nghiệp của Blokhin là 1975. Chơi bóng cùng thời với những huyền thoại như Franz Beckenbauer, Johan Cruyff, Gerd Müller và nhiều ngôi sao lớn khác, ông giúp Kiev giành cú đúp – vô địch Ukraina và UEFA Cup Winners Cup (Cúp C2), nhờ đó giành Quả bóng vàng cho riêng mình.

Với 122 điểm, ông bỏ xa “Hoàng đế” Beckenbauer (42) và “Thánh” Johan (27). Khoảng cách 80 điểm trở lên với những tên tuổi vĩ đại nhất của bóng đá châu Âu, thành tích của ông không một cầu thủ Liên Xô nào làm được.

Năm 1976, tại Olympic Montreal (Canada), ông có tên trong đội hình Liên Xô bị Đông Đức loại tại bán kết và sau đó giành HCĐ.

Trước đó, năm 1972, Liên Xô giành ngôi á quân Euro, với Blokhin là nhân vật không thể thiếu. Nhưng mặc dù Liên Xô có thành công ở Olympic và Euro, họ lại không thể giành vé dự World Cup 1974 và 1978. Ông thành công hơn cùng ĐTQG trong thập niên 80, với 2 lần dự World Cup (1982 và 1986), với mỗi giải ghi 1 bàn thắng.

Đáng nói là, ở Olympic 1988, đội tuyển Liên Xô giành Huy chương Vàng nhưng trước đó 1 tháng, Blokhin đã giải nghệ.

Không may với ĐTQG nhưng điều đó cũng không thể làm mờ đi sự nghiệp của ông. 2 năm cuối của sự nghiệp, ông chơi bóng tại Áo và Đảo Síp, nhưng toàn bộ những danh hiệu giành được đều trong màu áo Kiev, với 8 lần VĐQG, 5 Cúp Quốc gia, 2 Cúp C2, 3 Siêu cúp Quốc gia, 1 Siêu cúp châu Âu.

Trước khi giải nghệ năm 1990 (chia tay ĐTQG năm 1988), Blokhin có 112 lần khoác áo ĐTQG, ghi 42 bàn, có 495 trận đấu cho các CLB cùng 225 bàn thắng, 3 lần giành danh hiệu Cầu thủ xuất sắc nhất năm của Liên Xô, 9 lần xuất sắc nhất Ukraina, nhận giải Club Loyal vì lòng trung thành với Kiev, có tên trong danh sách các huyền thoại của Hiệp hội Thống kê và Lịch sử bóng đá (IFFHS) và là huyền thoại của Golden Foot 2009.

Chuyển sang vai trò HLV, ông lại làm việc với nhiều đội bóng hơn khi còn là cầu thủ. Olympiacos, P.A.O.K, Ionics, AEK Athens, FC Moscow và Dynamo Kiev là các CLB ông dẫn dắt. Ông bắt đầu làm việc với ĐT Ukraina từ tháng 9/2003 và giúp cho họ lần đầu tiên giành quyền tham dự giải đấu lớn (kể từ khi trở thành quốc gia độc lập) là kỳ World Cup 2006 tại Đức – Ukraina vào đến tứ kết.

Tháng 12/2007, ông từ chức vì Ukraina không vượt qua vòng loại Euro 2008, nhưng đến 2011, ông tái ngộ ĐTQG với nhiệm vụ ở VCK Euro 2012 trên sân nhà. Có điều, Ukraina bị loại ngay từ vòng bảng.

2 năm cuối sự nghiệp huấn luyện của ông cũng chính là ở Dynamo Kiev – đội bóng mà ông đã sẵn sàng từ chối mọi lời mời mọc quyến rũ để cống hiến với giấc mơ của mình. Có điều, CLB không giành được kết quả tích cực.

Bài viết cùng chuyên mục