Lothar Matthaus: Địch thủ lớn nhất của Maradona

“Anh ấy là địch thủ lớn nhất mà tôi từng đối mặt. Tôi nghĩ chỉ cần như vậy là đủ để mô tả về con người ấy”, Diego Maradona thừa nhận trong tự truyện của mình. Người mà huyền thoại người Argentina nhắc đến là Lothar Matthaus – “Tiểu hoàng đế” với sự nghiệp lẫy lừng.

Vô địch EURO rồi World Cup với tư cách thủ quân đội tuyển Đức, Quả bóng vàng 1990, chủ nhân của 7 Đĩa bạc Bundesliga, 204 bàn thắng sau 782 lần ra sân ở cấp CLB là một số thành tích nổi bật của Lothar Matthaus – một trong những huyền thoại của bóng đá thế giới. Với người Đức, ông được tôn là “Tiểu hoàng đế”, tức nói không quá là vị thế về mặt chuyên môn cũng như thành tích chỉ sau “Hoàng đế” Franz Beckenbauer.

Cựu đội trưởng tuyển Đức, người giữ kỉ lục ra sân ở 5 kì World Cup và có nhiều lần khoác áo Die Mannschaft nhất (150 lần) là một cầu thủ toàn diện: ông có thể ghi bàn bằng chân phải, chân trái, sút xa, sút phạt trực tiếp, chuyền bóng từ mọi cự li, kĩ thuật để vượt qua các hậu vệ cũng như kĩ năng ngăn chặn tiền đạo đối phương. “Tiểu hoàng đế” chơi hay ở mọi vị trí – từ tiền vệ con thoi, tiền vệ kiến thiết lùi sâu tới hậu vệ quét.

“Anh ấy là địch thủ lớn nhất mà tôi từng đối mặt. Tôi nghĩ chỉ cần như vậy là đủ để mô tả về con người ấy”, Diego Maradona thừa nhận trong tự truyện của mình. “Hoàng đế” Beckenbauer thì lại nhận xét Matthaus là “một cầu thủ hoàn hảo, không có điểm yếu”. Khi có được sự công nhận từ những cầu thủ xuất sắc nhất bóng đá từng sản sinh ra thì chẳng có gì phải bàn cãi về năng lực của Matthaus.

Sự nghiệp lẫy lừng

Lothar Matthaus sinh ngày 21/3/1961 tại Erlangen, bang Bavaria. Khi còn là một tài năng trẻ, ông gắn bó với đội bóng địa phương FC Herzogenaurach, CLB đặt đại bản doanh tại một thị trấn nhỏ có khoảng 20 nghìn người. Tới năm 18 tuổi, Matthaus bắt đầu chơi bóng chuyên nghiệp với một trong những CLB giàu truyền thống nhất Bundesliga, M’gladbach.

Dưới sự dẫn dắt của cựu tiền đạo Jupp Heynckes, Matthaus được trọng dụng và nhanh chóng chen chân vào đội hình chính. Ngay ở mùa bóng đầu tiên, tiền vệ 18 tuổi đã có 41 lần ra sân, ghi 6 bàn. Sau 5 năm khẳng định bản thân trong màu áo “The Foals”, ông đến với gã khổng lồ Bayern Munich.

Tại CLB hùng mạnh nhất quê nhà Bavaria, Matthaus vươn đến đỉnh cao trong sự nghiệp cấp CLB của mình. Ông thăng hoa với 3 Đĩa bạc Bundesliga liên tiếp cùng Bayern (1984/85, 1985/86, 1986/87). Cá nhân Matthaus dù đá tiền vệ nhưng ghi tới 57 bàn, trong đó không mùa nào có ít hơn hơn 10 pha lập công. Ông cũng dẫn dắt Hùm xám vào đến trận chung kết Cúp C1 1986/87 nhưng đáng tiếc lại để thua Porto bằng 2 bàn thắng muộn màng.

Kết thúc mùa giải 1987/88, Matthaus lần đầu “trắng tay” với Bayern và quyết định rời quê nhà để tìm kiếm thử thách mới cùng người đồng đội thân thiết Andreas Brehme. Tiền vệ người Đức chọn Inter Milan, một trong những CLB hùng mạnh nhất Italia làm bến đỗ tiếp theo. Sự có mặt của ông ngay lập tức mang đến Scudetto cho Nerazzurri sau 9 năm ròng rã chờ đợi.

Matthaus gắn bó với Inter 4 năm và có thêm 1 danh hiệu cùng đại diện thành Milan là chức vô địch UEFA Cup 1991, trong đó ông ghi 1 bàn thắng từ chấm phạt đền ở trận chung kết lượt đi gặp AS Roma. Kết thúc khoảng thời gian phiêu lưu trên đất Italia, Matthaus hồi hương khoác áo Bayern khi đã ở vào tuổi “băm”.

Thế nhưng thay vì “dưỡng già”, Matthaus lại như “hồi xuân” với thêm 8 năm cống hiến cho Bayern. Thành công mà ông có được cũng chẳng hề kém so với giai đoạn đầu khoác áo Hùm xám. Cùng CLB giàu thành tích nhất nước Đức, “Tiểu hoàng đế” bổ sung thêm vào bộ sưu tập danh hiệu 4 Đĩa bạc Bundesliga, 2 Cúp Quốc gia Đức cùng 1 chức vô địch UEFA Cup.

Matthaus chia tay Bayern khi đã 39 tuổi và sang Mỹ chơi cho MetroStars. Chỉ có mặt ở xứ sở cờ hoa 7 tháng (từ tháng 3 tới tháng 10 năm 2000) trước khi chính thức treo giày nhưng ông vẫn kịp giành chức vô địch miền Đông MLS, khép lại sự nghiệp huy hoàng ở cấp CLB. Điều khiến Matthaus nuối tiếc nhất có lẽ chính là việc Bayern của ông 2 lần thất bại ở các trận chung kết Cúp C1 (thua Porto mùa 1986/87) và Champions League (thua Man Utd mùa 1998/99) với kịch bản là dẫn trước nhưng để thua bởi những bàn thắng muộn.

Kỉ lục gia World Cup

Matthaus có thể coi là tượng đài bất tử của bóng đá Đức với hơn 20 năm cống hiến cho đội tuyển quốc gia và cho tới bây giờ, kỉ lục 150 lần khoác áo Die Mannschaft của ông vẫn là cột mốc mà các đàn em không biết bao giờ mới có thể tiệm cận chứ chưa nói gì đến việc vượt qua. Ông đã trải qua mọi thăng trầm với tuyển Đức và luôn là chỗ dựa vững chắc nhờ nỗ lực tự thay đổi bản thân.

Ra mắt đội tuyển quốc gia ở tuổi 20, Matthaus sớm có cơ hội chinh chiến tại EURO 1980, giải đấu mà Đức lên ngôi sau chiến thắng 2-1 trước Bỉ ở trận chung kết. Đó là giải đấu mà người Đức vô địch thuyết phục với thành tích bất bại. 2 năm sau đó, Matthaus lần đầu dự World Cup. Thêm một lần nữa, ông cùng các đồng đội đi tới trận đấu cuối cùng. Chỉ khác là lần này, họ lại trở thành kẻ chiến bại trên đất Tây Ban Nha khi bị Italia quật ngã với tỉ số 1-3.

Nốt trầm với Matthaus ở đội tuyển quốc gia là EURO 1984, giải đấu mà Đức phải xách va-li về nước ngay từ vòng bảng. Dù vậy, ông cùng các đồng đội đã trở lại mạnh mẽ tại World Cup 1986. Matthaus ra sân không thiếu phút nào ở giải đấu tại Mexico nhưng ở trận chung kết World Cup thứ 2 liên tiếp được góp mặt, ông vẫn phải chịu thất bại chung cuộc trước Argentina.

Thế nhưng vinh quang World Cup không thể lẩn tránh Matthaus mãi. Tại Italia 1990, Matthaus khi ấy là thủ quân đã dẫn dắt các đồng đội vượt qua hàng loạt đối thủ sừng sỏ để tái hiện trận chung kết 1986 với Argentina của Diego Maradona. Lần này, bàn thắng muộn từ chấm phạt đền của Andreas Brehme đã giúp Matthaus “phá dớp” và chạm tay vào chức vô địch.

1990 cũng là năm huy hoàng nhất trong sự nghiệp Matthaus khi ông trở thành chủ nhân của Quả bóng vàng. Sau tột đỉnh vinh quang trên đất Italia, Matthaus còn dự thêm 2 kì World Cup nữa vào các năm 1994 và 1998. Tuy không thực sự thành công nhưng ông cũng trở thành “kỉ lục gia” với 2 cột mốc là cầu thủ ra sân nhiều nhất ở các kì World Cup (25 trận) và góp mặt ở nhiều kì World Cup nhất (5 kì, ngang với Antonio Carbajal và Rafael Marquez đều của Mexico).

Một cầu thủ toàn diện

Xuất phát điểm là một tiền vệ con thoi với khả năng ghi bàn đáng nể nhưng Matthaus cũng được biết đến là một trong những hậu vệ quét hay nhất lịch sử. Ông là một “libero” đẳng cấp với khả năng đọc trận đấu, kĩ năng xoạc bóng lẫn kèm người không thua kém một trung vệ thực thụ nào.

Matthaus từng được giao nhiệm vụ “Không để Maradona chạm bóng” ở trận chung kết World Cup 1986. Ông theo kèm Maradona rát đến nỗi chính “Cậu bé vàng” cũng phải thừa nhận mình chưa từng gặp phải đối thủ nào đáng gờm đến thế. Đáng tiếc, chỉ một khoảnh khắc lơ là, Matthaus đã khiến Đức phải trả giá bằng bàn thua quyết định.

Tuy vậy, không thể phủ nhận tài năng cũng như nỗ lực thay đổi bản thân của Matthaus. Ở tuổi 33, ông vẫn có thể làm mới bản thân và khẳng định mình là một “libero” xuất sắc. Đó là điều mà không phải cầu thủ nào cũng làm được, nhất là khi đã bước qua bên kia sườn dốc của sự nghiệp.

Không chỉ là một cầu thủ giỏi, Mathaus còn được coi là một trong những thủ quân vĩ đại nhất trong lịch sử bóng đá Đức, hiện thân rõ nhất của thứ gọi là “tinh thần Đức”. Ông từng tiêm thuốc giảm đau liều cao để vào sân khi đồng đội chấn thương rồi kết thúc trận đấu với cái chân phải đầy máu. Đó là hỉnh ảnh mà người Đức không bao giờ có thể quên và có lẽ họ sẽ chẳng bao giờ sản sinh ra được một cầu thủ như “Tiểu hoàng đế”.

Bài viết cùng chuyên mục